† Nhân danh Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con, và Đức Chúa Thánh Thần. A-men. <3 †
#JIS
Con cái Ít-ra-en lại làm sự dữ trước mắt ĐỨC CHÚA, và ĐỨC CHÚA đã trao họ vào tay người Phi-li-tinh bốn mươi năm.
Có một người đàn ông ở Xo-rơ-a, thuộc chi tộc Đan, tên là Ma-no-ác. Vợ ông son sẻ và không sinh con. Sứ giả của ĐỨC CHÚA hiện ra với người vợ và nói với bà : “Này, bà là người son sẻ và không sinh con, nhưng bà sẽ có thai và sinh một con trai. Vậy bây giờ phải kiêng cữ : đừng uống rượu và thức có men, cũng đừng ăn mọi thứ không thanh sạch. Vì này bà sẽ có thai và sinh một con trai. Dao cạo sẽ không được lướt trên đầu nó, vì con trẻ sẽ là một na-dia của Thiên Chúa từ lòng mẹ. Chính nó sẽ bắt đầu cứu Ít-ra-en khỏi tay người Phi-li-tinh.” Bà đi vào và nói với chồng rằng : “Một người của Thiên Chúa đã đến gặp tôi ; hình dáng của người như hình dáng một sứ giả của Thiên Chúa, rất đáng sợ. Tôi đã không dám hỏi người từ đâu tới ; và danh tánh người, người cũng không tiết lộ cho tôi. Nhưng người nói với tôi : ‘Này bà sẽ có thai và sẽ sinh một con trai ; bây giờ bà phải kiêng cữ : đừng uống rượu và thức có men, cũng đừng ăn mọi thứ không thanh sạch, vì con trẻ ấy sẽ là một na-dia của Thiên Chúa, từ lòng mẹ cho đến ngày nó chết.’”
Ông Ma-no-ác khẩn nài ĐỨC CHÚA, ông nói : “Thưa Ngài, xin vui lòng cho người của Thiên Chúa mà Ngài đã sai, đến với chúng con một lần nữa, và dạy chúng con phải làm gì cho đứa trẻ sẽ sinh ra.” Thiên Chúa nghe tiếng ông Ma-no-ác, và sứ giả của ĐỨC CHÚA lại đến gặp vợ ông, lúc bà đang ở ngoài đồng, khi ông Ma-no-ác, chồng bà, không có mặt ở đó. Bà vội vã chạy đi báo cho chồng, và nói với ông : “Này người đã gặp tôi hôm trước, lại hiện ra với tôi nữa.” Ông Ma-no-ác đứng dậy đi theo vợ, đến gặp người kia và nói : “Ngài có phải là người đã nói với bà này không ?” Người ấy đáp : “Chính tôi.” Ông Ma-no-ác nói : “Khi xảy ra như ngài nói, thì đứa bé phải giữ luật nào, và nó phải làm gì ?” Sứ giả của ĐỨC CHÚA nói với ông Ma-no-ác : “Tất cả những điều tôi đã nói với bà ấy thì bà ấy phải giữ. Tất cả những gì bởi cây nho mà ra, thì bà không được ăn, cũng không được uống rượu và thức có men ; tất cả những gì không thanh sạch, thì bà không được ăn. Mọi điều tôi đã truyền, thì bà phải tuân giữ.” Ông Ma-no-ác thưa với sứ giả của ĐỨC CHÚA : “Xin cho phép chúng tôi giữ ngài lại và dọn hầu ngài một con dê tơ !” Sứ giả của ĐỨC CHÚA nói với ông Ma-no-ác : “Ông có giữ tôi lại, tôi cũng chẳng ăn bánh của ông ; nhưng nếu ông dọn lễ toàn thiêu kính ĐỨC CHÚA, thì ông hãy dâng lên Người đi”, vì ông Ma-no-ác không biết người ấy là sứ giả của ĐỨC CHÚA. Bấy giờ ông Ma-no-ác nói với sứ giả của ĐỨC CHÚA : “Xin ngài cho biết quý danh, để khi xảy ra như ngài nói, chúng tôi sẽ trọng đãi ngài !” Sứ giả của ĐỨC CHÚA nói với ông : “Sao ông lại hỏi tên tôi ? Đó là một điều bí nhiệm.” Bấy giờ ông Ma-no-ác bắt một con dê tơ và lấy tế phẩm, để dâng làm lễ toàn thiêu trên tảng đá kính ĐỨC CHÚA, Đấng đã thực hiện những kỳ công, rồi ông Ma-no-ác và bà vợ đứng nhìn. Khi ngọn lửa từ bàn thờ bốc lên trời, thì sứ giả của ĐỨC CHÚA cũng lên theo trong ngọn lửa của bàn thờ, trước sự chứng kiến của ông Ma-no-ác và vợ ông ; họ phục lạy sát đất. Sứ giả của ĐỨC CHÚA không hiện ra với ông Ma-no-ác và vợ ông nữa. Bấy giờ ông Ma-no-ác mới biết vị đó chính là sứ giả của ĐỨC CHÚA. Ông Ma-no-ác liền nói với vợ : “Chúng mình chết mất thôi, vì đã thấy Thiên Chúa.” Nhưng vợ ông nói với ông : “Nếu ĐỨC CHÚA có ý định giết chúng mình, thì Người đã chẳng nhận lễ toàn thiêu và tế phẩm từ tay chúng mình, đã chẳng cho chúng mình thấy tất cả những điều ấy, và mới đây đã chẳng cho chúng mình nghe một điều như thế.” Bà sinh được một con trai và đặt tên là Sam-son. Đứa bé lớn lên và ĐỨC CHÚA chúc lành cho nó. Thần khí ĐỨC CHÚA bắt đầu tác động trên Sam-son tại cánh đồng Đan giữa Xo-rơ-a và E-sơ-ta-on.
Thưa mẹ khả kính, con cầu xin Chúa Thánh Thần luôn ban xuống cho mẹ ân sủng và niềm an ủi của Người. Khi nhận được thư của mẹ thì con vẫn còn ở trên chốn tử vong này. Nhưng đã đến lúc phải hướng về trời, nơi chúng ta sẽ ca ngợi Thiên Chúa hằng hữu trong cõi đất dành cho kẻ sống. Con cứ tưởng mình đã hoàn tất được cuộc hành trình này trước đây rồi. Nếu bác ái là vui với người vui, khóc với người khóc như thánh Phao-lô nói, thì thưa mẹ khả kính, hẳn là mẹ phải hết sức vui mừng vì Chúa đã tỏ cho con thấy niềm hoan lạc đích thực và sự bảo đảm không bao giờ sợ mất Người nữa ; sở dĩ con được ơn này cũng là vì tình thương và ân sủng Chúa dành cho mẹ.
Thưa mẹ khả kính, con thú thật với mẹ là khi suy nghĩ về lòng nhân hậu của Thiên Chúa, bao la như biển cả không đáy không bờ, thì tâm trí con bàng hoàng, hầu như lạc lõng, không sao hiểu nổi. Quả thật, dù con chẳng vất vả bao nhiêu trong một thời gian vắn vỏi, thế mà Chúa cũng mời con đến nghỉ yên muôn đời. Từ trời cao, Người gọi con đến hưởng hạnh phúc vô biên, hạnh phúc mà con đã không mấy thiết tha tìm kiếm, và Người hứa ban thưởng cho con vì những giọt nước mắt ít ỏi con đã đổ ra.
Thưa mẹ khả kính, xin mẹ hết sức cẩn thận, đừng khóc thương con như khóc thương người chết, kẻo xúc phạm đến lòng nhân từ vô biên của Chúa. Thật ra, con vẫn sống trước nhan Thiên Chúa và những khi cần thiết, con có thể dùng lời cầu nguyện mà giúp đỡ mẹ hữu hiệu hơn cả lúc con còn sống ở trần gian. Cuộc chia ly này sẽ không lâu, vì trên trời chúng ta sẽ gặp lại nhau, và một khi cùng kết hợp với Đấng cứu độ chúng ta, chúng ta sẽ được hưởng niềm vui bất diệt mà hết lòng ngợi khen Chúa và ca tụng tình thương Chúa đến muôn đời. Chúa lấy lại cái Người đã ký thác nơi chúng ta không ngoài ý định là đặt nó vào nơi an toàn chắc chắn hơn và dùng chính những thứ mà chúng ta ước mong có được để làm cho chúng ta nên phong phú.
Thưa mẹ khả kính, sở dĩ con nói những điều đó là vì lòng những ước mong mẹ và toàn thể gia đình coi cuộc ra đi của con như một ân huệ đáng mừng. Xin mẹ lấy tình mẫu tử mà chúc lành cho cuộc hành trình này của con cho đến khi đạt tới bến bờ con vẫn hằng hy vọng. Con đã tự ý viết thư này vì không còn cách nào khác để bày tỏ lòng kính yêu mà một người con phải có đối với mẹ mình.
Đức Ki-tô đã minh thị ra thêm một điều luật. Người ra điều kiện rõ ràng và đòi buộc chúng ta : chúng ta chỉ được xin tha nợ theo mức độ chính chúng ta tha cho những người mắc nợ chúng ta. Hãy biết rằng : chúng ta sẽ không thể nào được tha tội như chúng ta xin, nếu chính chúng ta không tha cho những người xúc phạm đến chúng ta. Chính vì thế mà nơi khác, Chúa nói : Anh em đong đấu nào thì Thiên Chúa cũng sẽ đong cho anh em đấu ấy. Và tên đầy tớ được chủ tha hết nợ, nhưng không chịu tha nợ cho đồng bạn mình, thì đã bị trói lại và tống giam. Vì hắn không muốn khoan dung cho đồng bạn, nên hắn cũng mất đi lòng khoan dung ông chủ đã dành cho hắn.
Điều ấy, Đức Ki-tô chỉ thị một cách mạnh mẽ hơn các lệnh truyền khác. Người nghiêm khắc nói : Khi anh em đứng cầu nguyện, nếu anh em có chuyện bất bình với ai, thì hãy tha thứ cho họ, để Cha của anh em là Đấng ngự trên trời, cũng tha lỗi cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ, thì Cha của anh em là Đấng ngự trên trời, cũng sẽ không tha lỗi cho anh em. Ngày phán xét, bạn sẽ không có cách chi chữa mình được, vì lúc đó bạn sẽ bị xét xử theo chính phán quyết bạn đã ra cho mình ; bạn đã hành động ra sao thì sẽ phải gánh chịu như vậy.
Quả thế, Thiên Chúa đã dạy phải sống hoà thuận và đồng tâm nhất trí với nhau trong nhà Người. Khi tái sinh chúng ta, Người đã làm cho chúng ta nên như thế nào, thì Người muốn là khi được tái sinh rồi, chúng ta cứ tiếp tục sống như thế, để, vì là con Thiên Chúa, chúng ta ở lại trong niềm bình an của Thiên Chúa, và vì cùng chung một thần khí, chúng ta cũng chung một lòng một dạ với nhau. Cũng thế, Thiên Chúa đã không nhận lễ vật của kẻ bất hoà, và truyền cho họ phải rời bàn thờ, quay về làm hoà với anh em trước đã, rồi Người mới có thể vui nhận những lời cầu xin phát xuất từ một tâm hồn hoà thuận. Đối với Thiên Chúa, lễ tế cao cả nhất là niềm bình an, là tình huynh đệ thuận hoà và là một đoàn dân hợp nhất nhờ mối hợp nhất giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
A-ben và Ca-in là những người đầu tiên dâng của lễ, nhưng Thiên Chúa chẳng nhìn đến lễ vật, mà nhìn tận cõi lòng. Người vui với tấm lòng của ai thì cũng vui với lễ vật của người ấy. A-ben hiếu hoà và công chính ; khi dâng lễ tế lên Thiên Chúa với tâm hồn trong sạch, ông đã dạy những ai muốn đến bàn thờ dâng của lễ, cũng phải có lòng kính sợ Thiên Chúa, có trái tim đơn thành, phải giữ luật công chính và sống trong bình an hoà thuận. Khi dâng lễ tế lên Thiên Chúa, A-ben đã là con người như thế. Sau đó, chính ông được trở thành hy lễ dâng lên Thiên Chúa thì cũng rất phải lẽ. Ông được nhìn nhận là vị tử đạo đầu tiên, là người đã khởi sự cuộc Thương Khó của Chúa khi đổ máu vinh quang của mình, vì ông vừa sống đức công chính của Chúa, vừa giữ được niềm bình an. Những người như ông cuối cùng sẽ được Chúa ân thưởng và được chia sẻ vinh quang với Chúa.
Còn người bất thuận, chia rẽ và không sống hoà bình với anh em, thì theo lời chứng của thánh tông đồ Phao-lô và của Kinh Thánh, dầu có bị giết vì danh Chúa, người đó cũng không thoát khỏi lời cáo buộc về tội bất bình với anh em, như đã chép : Phàm ai ghét anh em mình thì là kẻ sát nhân. Kẻ sát nhân thì không được vào Nước Trời và không được ở cùng Thiên Chúa. Ai muốn bắt chước Giu-đa hơn là bắt chước Đức Ki-tô, thì không thể ở với Đức Ki-tô được.
Thưa anh em, vì Thiên Chúa thương xót chúng ta, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là cách thức xứng hợp để anh em thờ phượng Người. Anh em đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa : cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo.
Tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Ki-tô ở mãi trong tôi. Vì vậy, tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Ki-tô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh.
Tin Mừng là sức mạnh Thiên Chúa dùng để cứu độ bất cứ ai có lòng tin. Vì trong Tin Mừng, sự công chính của Thiên Chúa được mặc khải, nhờ đức tin để đưa đến đức tin, như có lời chép : Người công chính nhờ đức tin sẽ được sống.
Sự công chính của Thiên Chúa đã được thể hiện mà không cần đến luật Mô-sê. Điều này, sách Luật và các ngôn sứ làm chứng. Quả thế, người ta được Thiên Chúa làm cho nên công chính nhờ lòng tin vào Đức Giê-su Ki-tô.
Chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ : đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa ; cũng không phải bởi việc anh em làm, để không ai có thể hãnh diện.
Chúng ta biết rằng : Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Người, tức là cho những kẻ được Người kêu gọi theo như ý Người định. Vì những ai Người đã biết từ trước, thì Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Người, để Con của Người làm trưởng tử giữa một đàn em đông đúc. Những ai Thiên Chúa đã tiền định, thì Người cũng kêu gọi ; những ai Người đã kêu gọi, thì Người cũng làm cho nên công chính ; những ai Người đã làm cho nên công chính, thì Người cũng cho hưởng phúc vinh quang.
Anh em hãy tự cho mình là được chan chứa niềm vui khi gặp thử thách trăm chiều. Vì như anh em biết : đức tin có vượt qua thử thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn. Chớ gì anh em chứng tỏ lòng kiên nhẫn đó ra bằng những việc hoàn hảo, để anh em nên hoàn hảo, không có chi đáng trách, không thiếu sót điều gì.
Lạy Chúa, Ngài ngự giữa chúng con, và chúng con thuộc về Chúa vì được mang danh Ngài. Xin đừng bỏ rơi chúng con, lạy Chúa là Thiên Chúa chúng con.
Ngày ấy, bà A-than-gia, thân mẫu vua A-khát-gia-hu, thấy con mình đã chết, thì đứng lên tiêu diệt tất cả hoàng tộc. Nhưng bà Giơ-hô-se-va, ái nữ vua Giô-ram và là chị của vua A-khát-gia-hu, đã ẵm Giô-át, con vua A-khát-gia-hu, lén đưa cậu ra khỏi số các hoàng tử sẽ bị sát hại, giấu trong phòng ngủ cùng với người vú nuôi. Như thế, người ta đã giấu được cậu bé khuất mắt bà A-than-gia, và cậu không bị giết. Cậu Giô-át ở lại với bà Giơ-hô-se-va trong Nhà Đức Chúa, lẩn trốn ở đó sáu năm, suốt thời bà A-than-gia cai trị xứ sở.
Năm thứ bảy, ông Giơ-hô-gia-đa sai người đi mời các vị chỉ huy một trăm quân thuộc đạo binh Ca-ri và thuộc đoàn thị vệ. Ông cho họ vào trong Nhà Đức Chúa với ông. Ông kết ước với họ, bắt họ tuyên thệ trong Nhà Đức Chúa, và cho họ được thấy hoàng tử.
Các vị chỉ huy một trăm quân làm đúng mọi điều tư tế Giơ-hô-gia đã truyền. Mỗi vị chỉ huy đem theo người của họ, những người đang phiên trực ngày sa-bát, cùng với những người hết phiên trực ngày sa-bát. Họ đến với tư tế Giơ-hô-gia-đa. Tư tế trao cho các vị chỉ huy trăm quân, giáo và thuẫn của vua Đa-vít để trong Nhà Đức Chúa. Các thị vệ ai nấy đều cầm khí giới trong tay, đứng dàn từ phía nam đến phía bắc Nhà Đức Chúa, trước bàn thờ và trước Nhà Đức Chúa cốt để bao quanh vua. Ông Giơ-hô-gia-đa rước hoàng tử ra, đội vương miện và trao cuộn Chứng Ước. Người ta phong vương và xức dầu cho hoàng tử, rồi vỗ tay hô lên : “Vạn tuế đức vua !”
Khi bà A-than-gia nghe tiếng dân chúng la, bà đi về phía họ đang ở trong Nhà Đức Chúa. Bà nhìn lên, thì kìa vua đứng trên bệ cao theo nghi lễ vẫn thường cử hành, các vị chỉ huy và các người thổi kèn ở bên cạnh vua. Toàn dân trong xứ hân hoan reo hò giữa tiếng kèn trỗi vang. Bà A-than-gia liền xé áo mình ra và kêu lên : “Phản loạn ! Phản loạn !” Tư tế Giơ-hô-gia-đa truyền lệnh cho các vị chỉ huy một trăm quân đứng đầu toán binh, ông bảo họ : “Lôi nó ra khỏi hàng quân ! Ai theo nó, thì lấy gươm chém chết !” Quả thật, tư tế đã từng nói : “Nó không được chết trong Nhà Đức Chúa !” Họ liền túm lấy bà. Và khi bà đi qua lối Cửa Ngựa để tới đền vua ; thì họ giết bà ở đó.
Ông Giơ-hô-gia-đa lập giao ước giữa Đức Chúa, vua và dân, nhờ đó dân trở thành dân của Đức Chúa. Ông cũng lập giao ước giữa vua và dân. Toàn dân trong xứ kéo tới phá huỷ đền Ba-an, rồi đập nát các bàn thờ và tượng thần. Còn Mát-tan, tư tế của thần Ba-an, thì họ giết ngay trước các bàn thờ.
Tư tế Giô-hô-gia-đa đặt những trạm canh để giữ Nhà Đức Chúa. Toàn dân trong xứ thì vui mừng, còn thành vẫn không động tĩnh. Về phần bà A-than-gia, họ đã lấy gươm giết chết trong đền vua.
Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng : “Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư nát, và kẻ trộm khoét vách lấy đi. Nhưng hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, và kẻ trộm không khoét vách lấy đi. Vì kho tàng của anh ở đâu, thì lòng anh ở đó.
“Đèn của thân thể là con mắt. Vậy nếu mắt anh tốt, thì toàn thân anh sẽ sáng. Còn nếu mắt anh xấu, thì toàn thân anh sẽ tối. Vậy nếu ánh sáng nơi anh lại thành bóng tối, thì tối biết chừng nào !”
#IES
Iesus Maria Ioseph, ego amo te. Salvum fac animas. <3 <3 <3
Iesus Maria Ioseph, ego amo te. Salvum fac animas. <3 <3 <3
Iesus Maria Ioseph, ego amo te. Salvum fac animas. <3 <3 <3